Công nghiệp hỗ trợ: Đón vận hội mới từ chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu

Sự dịch chuyển chuỗi cung ứng cùng những chính sách hỗ trợ kịp thời đang mở ra cơ hội lớn cho công nghiệp hỗ trợ Việt Nam.

Sáng ngày 19/9, tại Trung tâm Triển lãm Việt Nam, Sở Công Thương Hà Nội chủ trì phối hợp với Liên Minh VISA và Công ty DIGIWIN Việt Nam tổ chức hội thảo: "Chuỗi cung ứng nội địa: Tăng tốc kết nối – Đón vận hội mới" thuộc khuôn khổ Triển lãm Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội năm 2025 (Triển lãm FBC ASEAN 2025); hội thảo có sự tham dự của gần 100 doanh nghiệp sản xuất trong và ngoài nước.

Tham gia tại hội thảo, các chuyên gia đều có chung nhận định, Việt Nam đang đứng trước cơ hội vàng để phát triển công nghiệp hỗ trợ nhờ sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu.

Mở đường cho công nghiệp hỗ trợ bứt phá

Theo Liên minh Hỗ trợ Công nghiệp Việt Nam (Liên minh VISA), các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội trở thành mắt xích mạnh hơn, tham gia sâu vào sản xuất linh kiện, nguyên phụ liệu. Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hóa vẫn mới đạt khoảng 36,6%, nhiều ngành như điện tử, linh kiện còn dưới 30%. Chất lượng kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc tế, dữ liệu minh bạch vẫn còn là rào cản lớn.

Khách thăm quan gian hàng VEAM tại Hội chợ triển lãm công nghiệp hỗ trợ Hà Nội 2025.

Khách thăm quan gian hàng VEAM tại Hội chợ triển lãm công nghiệp hỗ trợ Hà Nội 2025.

Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Mạnh Linh - Phó Trưởng phòng Nghiên cứu Công nghiệp, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương cho biết, Việt Nam đã có định hướng phát triển công nghiệp hỗ trợ từ khá sớm. Quy hoạch phát triển ngành đã được xác lập qua nhiều văn bản quan trọng như Quyết định 34/2007, Quyết định 908/QĐ-BCT về quy hoạch công nghiệp hỗ trợ đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

Đặc biệt, Nghị quyết 115/NQ-CP của Chính phủ đã đặt mục tiêu đến năm 2030, công nghiệp hỗ trợ phải đáp ứng khoảng 14% nhu cầu nội địa, với khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cạnh tranh tham gia chuỗi cung ứng của các tập đoàn lắp ráp và công ty đa quốc gia tại Việt Nam.

Ông Nguyễn Mạnh Linh - Phó Trưởng phòng Nghiên cứu Công nghiệp, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương chia sẻ tại hội thảo.

Ông Nguyễn Mạnh Linh - Phó Trưởng phòng Nghiên cứu Công nghiệp, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương chia sẻ tại hội thảo.

Định hướng này còn được lồng ghép trong nhiều nghị quyết lớn của Đảng và Chính phủ hay Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương. Điều đó cho thấy, phát triển công nghiệp hỗ trợ không chỉ là yêu cầu trước mắt mà được định hướng xuyên suốt, góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho nền kinh tế.

Ngày 14/7, Chính phủ ban hành Nghị định 205/2025 sửa đổi, bổ sung Nghị định 111 về phát triển công nghiệp hỗ trợ với nhiều điểm mới quan trọng. Trước hết, phạm vi công nghiệp hỗ trợ được mở rộng: không chỉ doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu, linh kiện mà cả doanh nghiệp tham gia một phần công đoạn sản xuất cũng được công nhận là doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và hưởng chính sách hỗ trợ.

Nghị định cũng bổ sung các chính sách về thử nghiệm, kiểm định, chứng nhận chất lượng, sản xuất thử, đồng thời tăng mức hỗ trợ cho hoạt động ứng dụng công nghệ.

Một điểm đổi mới quan trọng là việc phân cấp, phân quyền trong cấp giấy chứng nhận ưu đãi. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ do UBND cấp tỉnh cấp giấy xác nhận; các doanh nghiệp quy mô lớn tiếp tục được Bộ Công Thương xác nhận trực tiếp; danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển cũng được cập nhật, bổ sung theo hướng bắt kịp xu thế công nghệ.

Ông Nguyễn Mạnh Linh khẳng định, bên cạnh các chính sách, các chương trình hỗ trợ công nghiệp hỗ trợ được triển khai đồng bộ và hiệu quả. Từ Đề án 1556 về trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa trong công nghiệp hỗ trợ, đến Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ (Quyết định 68/2017, sửa đổi tại Quyết định 71/2024), hàng nghìn doanh nghiệp đã được thụ hưởng.

Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đang trưng bày sản phẩm tại hội thảo đã từng được hỗ trợ trực tiếp từ các chương trình này. Nhiều địa phương như Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc đã xây dựng đề án riêng, lồng ghép nội dung phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chương trình khuyến công, hỗ trợ đổi mới công nghệ. Các trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh cũng đang hoạt động hiệu quả, trở thành hạt nhân thúc đẩy liên kết và chuyển giao công nghệ.

Ông Nguyễn Hoàng Giang -Tổng giám đốc VEAM tại gian hàng của Tổng công ty tại Hội chợ Triển lãm công nghiệp hỗ trợ Hà Nội 2025.

Ông Nguyễn Hoàng Giang -Tổng giám đốc VEAM tại gian hàng của Tổng công ty tại Hội chợ Triển lãm công nghiệp hỗ trợ Hà Nội 2025.

Nền tảng để bứt phá

Ông Nguyễn Mạnh Linh đánh giá, "sau gần 20 năm, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống định hướng, chính sách và chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ khá toàn diện, rõ ràng. Tạo hành lang pháp lý và nền tảng quan trọng để công nghiệp hỗ trợ bứt phá, từng bước tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, góp phần nâng cao năng lực tự chủ và sức cạnh tranh của nền công nghiệp quốc gia.”

Bên cạnh những chính sách ưu đãi và định hướng phát triển, bà Trần Thanh Hòa - Trưởng ban Kết nối giao thương, Liên minh Hỗ trợ Công nghiệp Việt Nam cho rằng, điều quan trọng là phải đánh giá thẳng thắn thực trạng của công nghiệp hỗ trợ hiện nay. Mặc dù tỷ lệ nội địa hóa đã có bước cải thiện, song ở một số ngành, đặc biệt là điện tử và linh kiện, tỉ lệ này có xu hướng giảm.

"Nguyên nhân chủ yếu là nhiều doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng quốc tế. Sự kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa vẫn còn hạn chế, chưa hình thành được các chuỗi cung ứng ổn định", bà Hoà nói.

Bà Trần Thanh Hòa - Trưởng ban Kết nối giao thương, VISA: Sự kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa vẫn còn hạn chế, chưa hình thành được các chuỗi cung ứng ổn định.

Bà Trần Thanh Hòa - Trưởng ban Kết nối giao thương, VISA: Sự kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa vẫn còn hạn chế, chưa hình thành được các chuỗi cung ứng ổn định.

Tuy nhiên, bà Hòa cũng gợi mở một số cơ hội lớn cho doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Thứ nhất, sự dịch chuyển chuỗi cung ứng sau đại dịch đã tạo nhu cầu đa dạng hóa nguồn cung, thúc đẩy các tập đoàn FDI tìm kiếm nhà cung ứng nội địa.

Thứ hai, hệ thống chính sách hỗ trợ ngày càng hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý thuận lợi. Thứ ba, các tập đoàn quốc tế mong muốn cắt giảm chi phí logistics và tăng mua hàng tại chỗ, mở ra cơ hội nâng cao tỉ lệ nội địa hóa.

Về giải pháp, bà Hoà đề xuất cơ quan quản lý Nhà nước, tiếp tục ban hành và thực thi chính sách ưu đãi, tổ chức các sàn giao dịch công nghiệp hỗ trợ, xây dựng cơ sở dữ liệu hồ sơ năng lực doanh nghiệp; doanh nghiệp FDI cần mở rộng chương trình phát triển nhà cung ứng, chia sẻ tiêu chuẩn kỹ thuật, hỗ trợ đào tạo, cam kết đặt hàng thí điểm để doanh nghiệp Việt từng bước tham gia chuỗi cung ứng; các doanh nghiệp nội địa, cần đầu tư nâng cao công nghệ, quản trị chất lượng, đạt chuẩn quốc tế, tăng cường liên kết cụm ngành và nâng cao năng lực marketing.

Theo bà Hoà, mô hình “tam giác liên kết” giữa Nhà nước, doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nội địa là chìa khóa để rút ngắn khoảng cách cung - cầu, hình thành các cụm công nghiệp hỗ trợ gắn với khu công nghiệp, cắt giảm chi phí logistics.

"Những thành công từ mô hình của Samsung (tăng số nhà cung cấp nội địa lên 257) và Toyota Việt Nam (13 nhà cung cấp với hơn 1.000 sản phẩm xuất khẩu) là minh chứng rõ rệt cho hiệu quả của hợp tác này", bà Hoà dẫn chứng.

Chuyển đổi số: Cầu nối nâng tầm doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ

Ở góc nhìn khác, ông Nguyễn Hoàng Dũng - Phó Tổng giám đốc Công ty CP Phần mềm Digiwin Việt Nam chia sẻ, trong bối cảnh chính sách và định hướng phát triển công nghiệp hỗ trợ đã được hoạch định rõ ràng, vấn đề cốt lõi hiện nay là làm thế nào để doanh nghiệp Việt Nam có thể tự nâng cao năng lực, bắt kịp chuẩn mực quốc tế và tham gia hiệu quả vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ông Nguyễn Hoàng Dũng - Phó Tổng giám đốc Công ty CP Phần mềm Digiwin Việt Nam.

Ông Nguyễn Hoàng Dũng - Phó Tổng giám đốc Công ty CP Phần mềm Digiwin Việt Nam.

Để trở thành mắt xích trong chuỗi cung ứng toàn cầu, theo ông Dũng giải pháp quan trọng chính là ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số. Trước hết, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cần đảm bảo năng lực kỹ thuật, đi kèm với chất lượng sản phẩm ổn định và hệ thống quản lý truy xuất nguồn gốc minh bạch.

Lấy ví dụ từ ngành linh kiện ô tô, xe máy, nơi yêu cầu về kiểm soát chất lượng vô cùng khắt khe, ông Dũng phân tích, khi xảy ra bất kỳ lỗi nào, nhà cung cấp phải có khả năng truy xuất nhanh chóng nguyên nhân, khoanh vùng chính xác và đưa ra giải pháp xử lý trong thời gian ngắn nhất. Đây cũng là thước đo để các tập đoàn đa quốc gia quyết định có lựa chọn doanh nghiệp Việt Nam làm đối tác lâu dài hay không.

"Chuyển đổi số chính là 'cầu nối' rút ngắn khoảng cách giữa doanh nghiệp Việt và doanh nghiệp FDI" - ông Dũng khẳng định và cho rằng: "Nếu muốn nâng tỷ lệ nội địa hóa, doanh nghiệp Việt Nam không chỉ cần chính sách hỗ trợ từ Nhà nước và sự hợp tác từ doanh nghiệp FDI, quan trọng hơn là phải chủ động đầu tư vào công nghệ và chuyển đổi số". 

Sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu cùng những chính sách hỗ trợ kịp thời đã tạo ra "vận hội mới" cho công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Để biến cơ hội thành hiện thực, các doanh nghiệp cần chủ động đầu tư vào công nghệ, chuyển đổi số để nâng cao năng lực cạnh tranh. Mối liên kết chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nội địa chính là chìa khóa để rút ngắn khoảng cách, đưa ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, hướng đến mục tiêu tự chủ và phát triển bền vững.

Tác giả: Thu Hường
Nguồn: https://congthuong.vn/cong-nghiep-ho-tro-don-van-hoi-moi-tu-chuyen-dich-chuoi-cung-ung-toan-cau-421324.html
Tin liên quan
Đang chờ cập nhật