Để khắc phục tình trạng này, các chuyên gia cho rằng, mỗi tỉnh, thành phố cần quản lý chất lượng sông hồ, làm căn cứ để phân bổ tải lượng cho các nguồn thải khác nhau, cấp phép xả thải dựa trên khả năng chịu tải.
Cách nào để sông Tô Lịch trong xanh bền vững?
Từng là một dòng sông thơ mộng, nhưng hiện tại sông Tô Lịch đã trở thành dòng sông bị ô nhiễm nghiêm trọng. Hơn 10 năm qua, để "hồi sinh" sông Tô Lịch, TP. Hà Nội đã tập trung nhiều nguồn lực, nhiều lần thử nghiệm, triển khai đề án cải tạo, làm sạch nước sông… hy vọng hồi sinh các đoạn sông Tô Lịch chảy qua nội thành.
Được biết sông Tô Lịch có 24 cửa xả lớn và 95 cửa xả nhỏ, các cửa xả này đang được bịt để thu gom nước thải đưa về nhà máy nước thải Yên Xá xử lý. Ảnh chụp chiều 6/8, tại một cửa xả cỡ lớn ở gần phố Quan Hoa giao với Nguyễn Khánh Toàn.
Nguồn nước thải từ khu dân cư đổ trực tiếp ra sông Tô Lịch là một trong những nguyên nhân khiến nước của dòng sông này trở nên đen ngòm, bốc mùi hôi.

Việc đóng tạm thời ống dẫn nước từ Hồ Tây vào sông Tô Lịch khiến nước sông không nhận được nước bổ cập từ Hồ Tây, trở lại màu đen bẩn như trước. Ảnh: Trọng Tài
GS.TS Trần Đức Hạ, nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu cấp thoát nước và môi trường (Hội Cấp thoát nước Việt Nam), cho biết để xử lý có hiệu quả ô nhiễm cần tập trung vào nhóm giải pháp, trong đó bổ sung nước cho sông Tô Lịch là "bước thứ ba, không phải bước đầu tiên".
Bước thứ nhất là phải thu gom nước thải và xử lý đạt quy chuẩn môi trường trước khi xả ra sông. Tuy nhiên ghi nhận cho thấy nước thải đô thị vẫn chưa được thu gom triệt để. Vẫn còn một lượng nước thải khu vực thượng lưu sông và nước thải phân tán ven sông chưa được thu gom xử lý.
Bước thứ hai là phải hút sạch bùn cặn ô nhiễm nằm dưới lòng sông. Mặc dù công việc này được công ty thoát nước duy trì nạo vét thường xuyên nhưng lượng bùn, chất thải đổ ra sông lớn nên còn tồn đọng, bồi lắng nhiều.
Sau khi làm hai bước trên mới đến bước thứ ba là bổ sung nước sạch cho sông Tô Lịch. Có thể bổ sung bằng hai nguồn: nước thải đô thị sau khi xử lý đạt chuẩn về môi trường của các nhà máy/trạm xử lý nước thải và nước sạch từ sông Hồng.
Bước thứ tư là tăng cường làm sạch dòng sông, kết hợp với cảnh quan như thiết kế các vòi phun nước, thả bè thủy sinh... làm giàu khí oxy trong nước. Kết hợp giáo dục ý thức cộng đồng để bảo vệ môi trường, lên án những hành vi gây ô nhiễm sông Tô Lịch.
Nếu chưa thu gom triệt để nước thải đô thị hoặc bùn cặn lắng đọng thì có bơm bao nhiêu nước sạch vào cũng không giải quyết dứt điểm được ô nhiễm.
Như vậy để dòng sông Tô Lịch "hồi sinh", cá có thể bơi tung tăng như trước đây thì Hà Nội phải làm từng bước, nên ưu tiên cái gì làm trước cái gì sau và khi nào thì thực hiện đồng bộ các giải pháp.
đưa nước sạch từ sông Hồng bổ cập một phần nhỏ cho hồ Tây và sông Tô Lịch là một giải pháp đã được đề cập nhiều trong các quy hoạch thoát nước Hà Nội. Tuy nhiên để tạo dòng chảy cho sông Tô Lịch, cần hệ thống đường ống nước bổ cập từ sông Hồng phải đạt công suất 5m3/giây.
Và thêm lượng nước thải sau xử lý của các nhà máy thì có khoảng 6 - 6,5m3/giây mới đạt tốc độ dòng chảy tối thiểu cho sông Tô Lịch và đảm bảo cấp nước tạo dòng chảy môi trường cho các sông khác ở nội đô gắn kết với dòng sông này như Kim Ngưu, Lừ, Sét.
Còn nếu lưu lượng nước ít, vận tốc dòng chảy trong sông thấp, dưới bức xạ của ánh sáng mặt trời thì rong và tảo phát triển gây phú dưỡng, nguy cơ ô nhiễm nước sông sẽ trở lại.
"Tôi xem qua thông tin thì thấy rất khó đạt được dòng chảy như mong muốn sau khi bổ cập nước sạch vì đường ống "câu nước" từ sông Hồng chỉ có đường kính 1,2m. Theo tôi được biết, hiện hay có những đường ống HDPE đường kính 1,5 - 1,6m vẫn thi công bằng phương pháp kéo ngầm hoặc kích ngầm được. Tại sao không mạnh dạn đầu tư đường ống có đường kính lớn?", GS Trần Đức Hạ cho hay.
Lắp đặt đường ống có đường kính 1,2m nếu không đủ nước thì chúng ta phải đầu tư, thay đổi đường ống để đảm bảo được dòng chảy tối thiểu cho hệ thống sông nội đô, khi đó sẽ rất tốn kém. Vậy nên phải tính toán đường ống để bổ sung nước sạch cho phù hợp.
Bên cạnh đó, phương án làm đập dâng cũng cần nghiên cứu thận trọng vì sẽ tạo thành "hồ" trên sông vì dòng chảy thấp, làm bùn cặn lắng đọng, rong tảo phát triển và các rủi ro úng ngập đô thị về mùa mưa do các đập này gây nên.
Mỗi dòng sông đều cần một “bản đồ” hồi sinh
Không chỉ riêng sông Tô Lịch, từ sông Nhuệ, sông Đáy, Ngũ Huyện Khê đến hệ thống Bắc Hưng Hải, tình trạng ô nhiễm nước kéo dài nhiều năm nay khiến người dân sống ven sông lo lắng. Nước thải công nghiệp, sinh hoạt chưa xử lý, cùng hóa chất và mầm bệnh từ sản xuất nông nghiệp đã biến nhiều đoạn sông thành “dòng sông chết”.
Theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2016-2020, chất lượng nước trên các lưu vực sông lớn duy trì ở mức “trung bình” đến “tốt”. Nhưng nhiều đoạn sông vẫn rất kém như đoạn sông Cầu trước khi vào thành phố Thái Nguyên, sông Nhuệ chảy qua Hà Nội, hay sông Hương qua chợ Đông Ba.
Các chuyên gia cũng cho rằng, nguồn nước Việt Nam đang phải đối mặt với những đe dọa cả về số lượng và chất lượng. Nước thải công nghiệp và đô thị chưa được thu gom, xử lý, chất thải từ hóa chất và mầm bệnh do lạm dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu độc hại trong nông nghiệp phát tán vào.

Sông Cầu Bây, một nhánh sông thuộc hệ thống thuỷ lợi Bắc Hưng Hải bị ô nhiễm nghiêm trọng. Ảnh: Chí Anh
Ngân hàng thế giới tính toán, tác động ô nhiễm nước sẽ làm suy giảm đến 3,5% GDP hàng năm ở Việt Nam đến 2035 thông qua chi phí y tế để điều trị các căn bệnh liên quan đến ô nhiễm nguồn nước cũng như sự sụt giảm năng suất lao động, thiệt hại về du lịch và sản xuất nông nghiệp. Việt Nam cũng đối mặt với thách thức quản lý nguồn nước xuyên biên giới khi nằm cuối nguồn nhiều hệ thống sông lớn như sông Hồng, sông Cửu Long.
Trước thực trạng và xu thế ô nhiễm có thể gia tăng, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 quy định lập kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt theo thời kỳ 5 năm. Bộ Nông nghiệp và Môi trường chịu trách nhiệm với các sông liên tỉnh; UBND tỉnh/thành phố lập kế hoạch cho sông hồ nội tỉnh. Theo đó, Bộ đã ban hành hướng dẫn kỹ thuật lập kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt 8 bước. Đây được coi là nhóm giải pháp tổng thể kiểm soát và bảo vệ chất lượng nước.
Kinh nghiệm quốc tế của Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc - những bài học thành công cho thấy, việc kiểm soát chất lượng nước theo tổng tải lượng ô nhiễm, phân cấp việc kiểm soát tới các địa phương, theo dõi tiến độ và nội dung thực hiện thông qua kế hoạch quản lý chất lượng nước do chính quyền địa phương xây dựng đã giúp tạo ra sự thay đổi tích cực, có ảnh hưởng đáng kể tới cải thiện chất lượng nước ở các quốc gia này.
Từ thí điểm đến giải pháp tổng thể cho dòng chảy xanh
Trước khi xây dựng khung hướng dẫn kỹ thuật, Tổng cục Môi trường (nay là Cục Môi trường) đã triển khai thí điểm “Xây dựng Kế hoạch quản lý chất lượng nước đối với lưu vực sông Cầu” giai đoạn 2021 – 2023. Kết quả cho thấy năng lực quản lý và kỹ năng chuyên môn của một số cán bộ quản lý môi trường nước tại các Sở Nông nghiệp và Môi trường còn hạn chế, hình phạt theo quy định chưa đủ sức răn đe, còn thiếu sự tham gia đồng bộ của các bên liên quan.
Trong khuôn khổ “Dự án lồng ghép chống chịu biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường để phát triển các đô thị xanh” của Cục Môi trường, các chuyên gia đã thí điểm đánh giá sức chịu tải một đoạn tại sông Phan tỉnh Vĩnh Phúc (nay là tỉnh Phú Thọ) và xây dựng dự thảo Kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước tại đây. Thí điểm này đem lại những kinh nghiệm thực tiễn, từ cách đánh giá khả năng chịu tải tới việc xác định chất ô nhiễm chủ yếu.
Cũng từ thực tiễn này, theo TS Trịnh Thành, Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường, Đại học Bách khoa Hà Nội (chuyên gia dự án), các văn bản hướng dẫn liên quan cần được rà soát, bổ sung để giúp địa phương đánh giá đúng sức chịu tải của thủy vực và phân loại nguồn thải, từ đó áp dụng biện pháp kiểm soát phù hợp.
Trong tương lai, mỗi tỉnh, thành phố cần có kế hoạch quản lý chất lượng sông hồ, làm căn cứ để phân bổ tải lượng cho các nguồn thải khác nhau, cấp phép xả thải dựa trên khả năng chịu tải.
Ở cấp liên vùng, các chuyên gia khuyến nghị, cần giám sát và kiểm soát theo tổng tải lượng ô nhiễm đối với các lưu vực sông lớn như Cầu, Nhuệ – Đáy, Hồng – Thái Bình, Sài Gòn – Đồng Nai. Việc thực hiện nên chia thành nhiều giai đoạn để dễ đánh giá hiệu quả, đồng thời bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp luật quản lý nguồn thải, bảo đảm hài hòa với thông lệ quốc tế.
Một yếu tố quan trọng khác là hoàn thiện hệ thống quan trắc và thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp và cộng đồng. Khi người dân, tổ chức xã hội cùng tham gia bảo vệ và giám sát, chất lượng nước sông hồ sẽ được bảo vệ hiệu quả hơn.
Quản lý chất lượng nước sông hồ là bài toán phức tạp vì đặc thù tài nguyên nước biến động theo không gian và thời gian. Thực tiễn cho thấy, Mỹ và Nhật Bản mất tới 40 năm để cải thiện chất lượng nước; Hàn Quốc cũng đã nỗ lực 25 năm và vẫn đang trong quá trình tiến triển tích cực.
Theo các chuyên gia, Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu, quản lý tổng thể sông hồ không thể mang lại kết quả trong ngày một ngày hai. Để thành công, cần đầu tư dài hạn, tầm nhìn chiến lược, và nhiều thay đổi từ tư duy quản lý, cơ chế điều phối đến nâng cao năng lực cán bộ, đồng thời cần huy động sự tham gia tích cực từ các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư- điều kiện không thể thiếu để chung tay “hồi sinh những dòng sông chết”.
  




 In bài viết

.png)