Giá gạo xuất khẩu giảm dưới mức dự báo
Giá gạo xuất khẩu ngày 11/2 đã tăng nhẹ so với ngày trước đó, tuy nhiên, vẫn đang ở mức dưới 400 USD/tấn.
Cụ thể, cập nhật số liệu mới nhất của Hiệp hội Lương thực Việt Nam ngày 11/2 cho thấy, gạo xuất khẩu 5% tấm đang được chào bán với giá 397 USD/tấn (tăng 1 USD/tấn so với ngày trước đó); gạo 25% tấm đang chào bán với giá 372 USD/tấn (tăng 2 USD/tấn so với ngày trước đó); gạo 100% tấm đang được chào bán với giá 310 USD/tấn (đi ngang so với ngày trước đó).
![]() |
Giá gạo xuất khẩu những ngày đầu tháng 2/2025 giảm xuống mức thấp nhất trong 9 năm. |
Gạo xuất khẩu của Thái Lan ngày 11/2 điều chỉnh giảm nhẹ. Cụ thể, gạo xuất khẩu 5% tấm đang được chào bán với giá 426 USD/tấn (giảm 3 USD/tấn so với ngày trước đó); gạo xuất khẩu 25% tấm đang được chào bán với giá 406 USD/tấn (giảm 1 USD/tấn so với ngày trước đó); gạo xuất khẩu 100% tấm được chào bán với giá 374 USD/tấn (giảm 1 USD/tấn so với ngày trước đó).
Dù đã thu hẹp khoảng cách giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và Thái Lan, tuy nhiên, giá gạo xuất khẩu của Thái Lan vẫn cao hơn Việt Nam từ 29 – 64 USD/tấn, tùy loại. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam cũng đang thấp hơn gạo Ấn Độ và Pakistan lần lượt trong khoảng từ 16-22 USD/tấn và 4-28 USD/tấn tùy loại.
Như vậy, với mức dưới 397 USD/tấn, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đang thấp hơn 136 USD/tấn so với mức giá 533 USD/tấn được ghi nhận vào ngày 19/7/2023 (thời điểm trước khi Ấn Độ ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo). Còn so với giá đỉnh 663 USD/tấn hồi cuối tháng 11/2023, giá gạo 5% tấm xuất khẩu đã giảm 264 USD/tấn, tương đương mức giảm 39,8%. Nếu so sánh với thời điểm giá gạo đạt đỉnh, tức vào tháng 1/2024, hiện gạo 5% tấm đã giảm khoảng 260 USD/tấn; gạo 25% tấm cũng giảm ở mức tương tự; gạo thơm Jasmine giảm 150 USD/tấn.
Thay đổi cách làm để “giữ vững tay chèo" trước "cơn sóng cả”
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhận định, năm 2025, khi Ấn Độ đã gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo, Indonesia - thị trường xuất khẩu gạo lớn thứ hai của Việt Nam - tự chủ lương thực chỉ nhập khẩu lượng nhỏ gạo tùy thuộc vào nguồn cung sẽ tác động đến lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Sự tụt dốc của giá gạo xuất khẩu khiến nhiều doanh nghiệp bất ngờ. Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An (Cần Thơ) – thông tin, lượng tồn kho của các quốc gia nhập khẩu gạo truyền thống của Việt Nam tương đối đầy, chưa phải là lúc mua vào, trong khi thông tin nguồn cung dồi dào lan truyền càng gây sức ép lớn đến giá gạo.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, hiện 3 thị trường truyền thống đang chiếm gần 70% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam, nhưng biến động về chính sách của các thị trường này cũng sẽ tác động nhanh nhậy lên thị trường lúa gạo Việt Nam.
Số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho hay, trong năm 2024, Philippines là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 46,1%. Indonesia và Malaysia là hai thị trường lớn tiếp theo với thị phần tương ứng là 13,2% và 7,5%.
Câu hỏi đặt ra tại sao trong bối cảnh giá gạo xuất khẩu trên thị trường thế giới giảm, nhưng tốc độ tụt giảm giá gạo xuất khẩu của Việt Nam diễn ra nhanh hơn giá gạo xuất khẩu của Thái Lan rất nhiều?
Theo các chuyên gia trong ngành, việc doanh nghiệp xuất khẩu gạo tập trung quá lớn vào một số ít thị trường mua số lượng nhiều nhằm “hưởng chênh lệch đầu tấn” (tức bán khối lượng càng nhiều lợi nhuận càng cao) mà chưa tập trung vào giá trị là nguyên nhân khiến ngành gạo Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề khi rủi ro xảy ra.
Câu chuyện giá gạo xuất khẩu sụt giảm mạnh từ đầu năm 2025 đến nay tiếp tục đặt ra bài toán đa dạng hóa thị trường để gia tăng thêm sức cạnh tranh cho ngành lúa gạo.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khuyến nghị, các doanh nghiệp cần chủ động đa dạng hóa thị trường, chủng loại gạo xuất khẩu, không chỉ tập trung vào các thị trường châu Á như Philippines, Indonesia, Trung Quốc... mà cần mở rộng xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng khác, như châu Âu, Mỹ, Trung Đông, Tây Á và châu Phi.
Bên cạnh đó, về phía các địa phương cần tập trung sản xuất các loại gạo chất lượng, giá bán cao được thị trường ưa chuộng như các loại gạo thơm, gạo đặc sản…Trong đó, quan tâm tập trung nguồn lực cho việc triển khai Đề án “Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”, để đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia tiên phong trong sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải phù hợp xu thế tiêu dùng thế giới, vừa tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn nữa cho hạt gạo Việt Nam.
Sẽ không có công thức chung cho việc mở thị trường, mỗi doanh nghiệp có thế mạnh riêng để thực hiện việc này. Tuy nhiên, bên cạnh việc mở cửa thị trường, đảm bảo chất lượng thì chú trọng đến chiến lược xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, chăm sóc khách hàng... sẽ là cách để các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nói riêng, ngành lúa gạo Việt Nam nói chung “giữ vững tay chèo" trước những "cơn sóng cả”.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2024 ước đạt 626,5 USD/tấn, tăng 9% so với năm 2023. Trong đó, quý I/2024, giá gạo 5% tấm đầu năm cao, tăng mạnh nhờ nhu cầu lớn từ các thị trường nhập khẩu, trung bình khoảng 623 USD/tấn; quý II/2024 giá đạt đỉnh vào tháng 4 khoảng 642,7 USD/tấn nhưng giảm mạnh trong tháng 5,6, đạt trung bình khoảng 572 USD/tấn; quý III/2024 giá phục hồi nhẹ nhờ nhu cầu tăng giữa năm khoảng 605 USD/tấn; quý IV/2024 giá trung bình khoảng 628 USD/tấn duy trì mức cao ổn định và tăng tích cực so với 2023. |